- Hoàn cảnh gia đình: anh là dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm còn lại mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống thì bấp bênh …
- Ngoại hình: xấu xí, thô kệch, được miêu tả “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình thì to lớn vập vạp, ngờ nghệch lại rất vụng về…
2.2.1. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ về:
-
- Lần gặp đầu: lời hò của Tràng chỉ là một lời nói đùa của người lao động chứ không hề có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.
- Lần gặp 2:
- Khi bị cô gái mắng, anh chỉ cười toét miệng và mời cô ăn dù anh cũng không dư dả gì. Đó là hành động của một người nông dân hiền lành tốt bụng.
- Khi người đàn bà ấy quyết định theo mình về: Tràng chợt nghĩ về việc đèo bòng thêm một miệng ăn, nhưng rồi lại tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải là một quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh nghèo khó, khát khao có được hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
- Đưa người đàn bà ấy lên chợ tỉnh mua đồ: nói lên sự nghiêm túc và sự chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.
2.2.2. Trên đường về nhà:
- Vẻ mặt của anh “có cái gì phơn phởn khác thường”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”, “tủm tỉm cười một mình” … Đó là tâm trạng của hạnh phúc, niềm hãnh diện.
- Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình thì căn nhà sẽ trở lên sáng sủa hơn.
2.2.3. Khi đã về đến nhà:
- Xăm xăm bước vào để dọn dẹp sơ qua, vội thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của phụ nữ. Hành động đầy sự ngượng nghịu nhưng lại rất chân thật, mộc mạc.
- Khi bà cụ Tứ chưa về nhà, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo sợ rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh nhà mình quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ bị tuột khỏi tay.
- Sốt ruột mong chờ bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì dù trong hoàn cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của một đứa con biết lễ nghĩa.
- Khi bà cụ Tứ về: Tràng thưa chuyện một cách trịnh trọng và biện minh lí do lấy vợ của mình là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ đồng ý, vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng bỗng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
2.2.4. Sáng hôm sau khi ngủ dậy:
- Tràng nhận thấy có sự thay đổi kì lạ trong ngôi nhà mình (sân vườn, ang nước, quần áo…), Tràng như nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng cảm thấy bản thân mình như trưởng thành hơn.
- Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng hiện lên hình ảnh đám người đói và lá cờ đang bay phấp phới. Đó chính là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời và con đường đi mới.
=> Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật Tràng đã có sự biến đổi theo một chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn đã ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái nghèo, đói.
2.3. Phân tích nhân vật thị trong vợ nhặt
2.3.1. Lai lịch của thị:
- Cô không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến cho biết bao nhiêu con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình của mình.
- Đến tên tuổi cũng không có và qua cái tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng, nghèo nàn của con người trong cảnh đói.
2.3.2. Ngoại hình:
- Quần áo thì tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt”.
- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui đùa của Tràng, thị đã vui vẻ ra giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của những người lao động nghèo.
- Lần thứ hai:
- Thị đã sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ gì đó có giá trị hơn và khi được Tràng mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt thị sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
- Khi nghe Tràng nói đùa rằng “đằng ấy có về với tớ thì… lên xe rồi cùng về”, thị đã theo Tràng về thật bởi trong cái đói khổ, đó chính là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
- Nhận xét: Cái đói khổ kia không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà còn cả nhân cách của con người. Nhưng người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà là do cái nghèo đói xô đẩy.
2.3.3. Phẩm chất của thị:
- Có một khát vọng sống vô cùng mãnh liệt:
- Quyết định đi theo Tràng về làm vợ dù rằng không biết gì về Tràng, chấp nhận theo không về mà không cần sính lễ vì thị sẽ không còn phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ nữa.
- Khi đến nhà Tràng thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu” của Tràng, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có được cơ hội sống.
- Thị là một người phj nữ ý tứ và nết na:
- Trên đường về nhà Tràng, thị cũng rón rén e thẹn đi sau, đầu hơi cúi xuống, ngại ngùng cho cái thân phận vợ nhặt của mình.
- Khi vừa về đến nhà, Tràng đã đon đả mời ngồi, thị cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay cứ ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ của thị khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
- Khi gặp mẹ chồng – bà cụ Tứ, ngoài câu chào thì thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự ngại ngùng, lúng túng ngượng nghịu.
- Sáng hôm sau, thị đã dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” nữa mà hiền hậu, đúng mực.
- Lúc ăn cháo cám, lúc mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng cô vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang và ý tứ trước người mẹ chồng, để không làm bà buồn.
- Nhận xét: Cái nghèo đói có thể cướp đi nhân phẩm trong một khoảnh khắc nào đó chứ không thể vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
- Thị còn là một người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện đi phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên niềm hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
2.4. Phân tích nhân vật bà cụ tứ trong vợ nhặt
- Giới thiệu nhân vật bà cụ Tứ: dáng đi lọm khọm, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa húng hắng ho, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen của người già.
- Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch của mình, càng ngạc nhiên trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ trong nhà.
- Bà đã hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoà đi”: thương cho đứa con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát ấy mới có thể lấy được vợ, thương cho người đàn bà kia, khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.
- Bà đối xử rất tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi xuống đây … cho đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với niềm lạc quan và bảo ban các con làm ăn…
- Nhận xét: bà cụ Tứ là một người mẹ hiền từ, nhân hậu, chất phác.
3. Kết bài vợ nhặt
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Vợ nhặt và nêu lên cảm nhận